1. Thời kỳ Edo
Thời kỳ Edo (江戸時代: Edo-jidai), còn gọi là thời kỳ Tokugawa là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868.
Ngoài những thành tựu lớn trong lịch sử đã đề cập đến về kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật như báu vật quốc gia thành Matsumoto, geisha, múa rối, tranh Ukiyoe, thì còn có về khoa học - kỹ thuật như: Kaitai Shinsho - chuyên luận đầu tiên về giải phẫu học, …
Trong số đó, quả thực thiếu sót nếu như không kể đến đồng hồ vạn niên và búp bê Karakuri.
2. Đồng hồ vạn niên
Ở thời đại Edo, nơi không có sự tồn tại của bóng đèn, thì hầu hết người dân ngày qua ngày đều sống và sinh hoạt dựa theo độ dài của ngày thông qua sự chuyển động của mặt trời.
Với cách làm như vậy, thì ở một nơi ôn đới như Nhật Bản, sẽ không có sự phân chia thời gian trong một ngày đúng như quy định vốn có, mà áp dụng cách đo đạc thời gian không đồng nhất, và luôn thay đổi cách phân chia thời gian dựa theo ban ngày và ban đêm.
Riêng điểm này, thì do ở Châu Âu có vĩ độ cao, cho nên mùa hè thường sẽ có ngày dài hơn đêm, và mùa đông thì sẽ có ngày ngắn hơn đêm. Cho nên dù không có bóng đèn, nhưng có vẻ như họ cũng phải áp dụng quy luật thời gian cố định thông thường.
Do đó, chiếc đồng hồ đúng giờ Zenmai đến từ châu Âu trong thời Chiến quốc đã trở nên vô dụng. Tuy nhiên, dựa trên chiếc đồng hồ đó, vào thời Edo, người Nhật đã chế tạo ra một chiếc đồng hồ không cần chip máy tính để tạo ra một chiếc đồng hồ thời gian vô định mà tự động thay đổi tích tắc thời gian vào buổi sáng và buổi tối tùy theo mùa.
Nó được gọi là đồng hồ kiểu tấm tôn trong ảnh dưới đây. Thay vì khắc thời gian trên một vòng tròn, nó đã được khắc theo một đường thẳng trên một tấm bảng, và các quả nặng giảm xuống với tốc độ không đổi, và chiều rộng của rãnh được thay đổi giữa ngày và đêm. Sau đó, như trong hình, các khía xếp thành từng đợt sóng tùy theo mùa nên được gọi là loại tôn sóng.
Tên của chiếc đồng hồ này là 円天符波板式文字板尺時計: Đồng hồ trụ với bánh xe cân bằng và bảng điều khiển dạng gợn sóng (Pillar Clock with Balance Wheel and Corrugated Dial Panel)
Những người thợ đồng hồ cũng đã làm ra những con búp bê Karakuri và chơi với chúng như một buổi giới thiệu về công việc kinh doanh chính của họ là làm đồng hồ. Và công nghệ của các nhà sản xuất đồng hồ đặc biệt của Nhật Bản đã hỗ trợ quốc gia công nghệ của Nhật Bản sau cuộc Duy tân Minh Trị.
3. Búp bê Karakuri
Karakuri đã xuất hiện trước đó nhưng phát triển mạnh mẽ vào nửa đầu thời kỳ Edo, thời kỳ giao thương giữa châu Âu với Nhật Bản khá nhộn nhịp. Các nghệ nhân chế tác Karakuri kết hợp với các kỹ thuật rãnh xoắn, bánh xe trong đồng hồ do các thương nhân châu Âu mang vào Nhật Bản để tạo ra những Karakuri có cử động phức tạp hơn so với những Karakuri thuở sơ khai.
Dòng họ có công lớn trong việc phát triển Karakuri là gia tộc Tamaya Shobei. Theo sử sách, trong lễ hội Toshogu năm 1733 tại Nagoya, nghệ nhân Tamaya Shobei đã trình diễn kiệu rước có tên gọi là Rinnasei-sha.
Kiệu rước được trang trí với nhiều búp bê Karakuri với mỗi búp bê có một loại cử động như gật, lắc đầu, vẫy tay và đặc biệt là một Karakuri hình một chú bé đuổi bắt một chú chim sếu đang vỗ cánh.
Dưới đây là một đoạn clip về búp bê bưng trà Karakuri
Từ lâu Nhật Bản đã phát triển công nghệ đến như thế này quả thật tuyệt vời phải không nào?
Hãy cùng theo doic Japan IT Works để biết thêm nhiếu điều thú vị từ Nhật Bản nữa nhé.
Japan IT Works